Giới thiệu về bản thân
Câu 2:
Giacomo Leopardi - nhà thơ, nhà triết học người Ý đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm giá trị, trong đó có câu nói nổi tiếng: "Trẻ con tìm thấy tất cả ở nơi chẳng có gì, còn người lớn chẳng tìm được gì trong tất cả.". Đây là một quan sát sâu sắc về sự khác biệt giữa thế giới của trẻ em và thế giới của người lớn. Từ góc nhìn của một người trẻ, tôi muốn chia sẻ suy nghĩ của mình về ý kiến này.
Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng trẻ em và người lớn có cách nhìn nhận thế giới khác nhau. Trẻ em thường có tâm hồn trong sáng, tươi đẹp và đầy ắp những điều kỳ diệu. Họ có khả năng tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong những điều nhỏ nhặt nhất, như một bông hoa nhỏ, một con bướm bay lượn hoặc một trò chơi đơn giản. Điều này cho thấy rằng trẻ em có khả năng tìm thấy "tất cả" ở nơi "chẳng có gì", vì họ không cần những thứ phức tạp, xa hoa để cảm thấy hạnh phúc.
Ngược lại, người lớn thường có cách nhìn nhận thế giới phức tạp và nghiêm túc hơn. Họ thường bị chi phối bởi những lo lắng, áp lực và trách nhiệm trong cuộc sống, khiến họ khó có thể tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong những điều nhỏ nhặt. Họ thường cần những thứ phức tạp, xa hoa để cảm thấy hạnh phúc, nhưng điều này lại không phải lúc nào cũng mang lại cho họ sự thỏa mãn và hạnh phúc thực sự. Điều này cho thấy rằng người lớn thường "chẳng tìm được gì trong tất cả", vì họ đã mất đi khả năng tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong những điều nhỏ nhặt.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người lớn không thể tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Trên thực tế, có nhiều người lớn vẫn có khả năng tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong những điều nhỏ nhặt, như một bữa cơm gia đình ấm cúng, một cuộc trò chuyện với bạn bè hoặc một hoạt động giải trí đơn giản. Điều này cho thấy rằng, dù cho chúng ta đã lớn, chúng ta vẫn có khả năng tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong những điều nhỏ nhặt, nếu chúng ta biết cách nhìn nhận thế giới một cách trong sáng và tươi đẹp.
Cuối cùng, tôi muốn nói rằng ý kiến của Giacomo Leopardi đã giúp chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa thế giới của trẻ em và thế giới của người lớn. Nó cũng giúp chúng ta nhận ra rằng, dù cho chúng ta đã lớn, chúng ta vẫn có khả năng tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong những điều nhỏ nhặt, nếu chúng ta biết cách nhìn nhận thế giới một cách trong sáng và tươi đẹp.
Câu 1:
Trong câu chuyện "Hoàng tử bé" của Antoine de Saint-Exupéry, nhân vật "tôi" là một phi công bị rơi xuống sa mạc Sahara. Qua câu chuyện, chúng ta thấy được sự thay đổi trong tính cách và quan điểm của nhân vật "tôi" khi anh gặp gỡ Hoàng tử bé.
Ban đầu, nhân vật "tôi" được miêu tả là một người trưởng thành, thực dụng và chỉ quan tâm đến những việc thực tế. Tuy nhiên, khi gặp Hoàng tử bé, anh bắt đầu thay đổi. Anh học được cách nhìn nhận thế giới một cách đơn giản và trong sáng hơn, giống như cách nhìn của Hoàng tử bé.
Qua cuộc gặp gỡ này, nhân vật "tôi" cũng nhận ra được giá trị của tình bạn và tình yêu. Anh hiểu được rằng những thứ quan trọng nhất trong cuộc sống không phải là những thứ có thể nhìn thấy hoặc chạm vào, mà là những thứ vô hình như tình cảm và kỷ niệm.
Câu 1:Ngôi kể thứ 1
Câu 2:Kiệt tác của cậu bé là vẽ bức tranh con trăn đang nuốt một con voi
Câu 3:Vì những môn kia mới giúp cậu bé có được những cơ hội công việc làm tốt chứ không phải là vẽ vời
Câu 4:Người lớn trong văn bản là:Các người lớn không bao giờ tự mình hiểu được điều gì, và trẻ con lúc nào, lúc nào cũng phải giảng giải cho các ông.Em thấy những người lớn không có sự lắng nghe và thấu hiểu xem là đứa trẻ ấy đang muốn gì từ bản thân mình
Câu 5:Theo em chúng ta nên nhìn vào hiện thực xem chúng ta giỏi ở bộ môn hay lĩnh vực nào để từ đó chúng ta có thể phát huy hết tài năng của mình để mở ra một cánh cửa sáng lạn hơn cho chính bản thân chúng ta.
Câu 1:
Ông Goriô bây giờ đã chết, nằm trong quan tài, nhưng vẫn cứ là nhân vật trung tâm của đoạn trích, cũng như ông là nhân vật trung tâm của tiểu thuyết. Nhà văn dùng nhiều biện pháp nghệ thuật nhằm khắc họa đậm nét số phận bi đát của ông, nạn nhân đau khổ của thói đen bạc. Chẳng phải không có dụng ý khi nhà văn kết thúc quyển tiểu thuyết về ông bằng một đám tang, đám tang của chính ông. Balzac chọn khung cảnh là một vùng ngoại ô buồn tẻ (ngày nay, cả khu vực ấy từ dãy phố, nhà thờ thánh Etienne Du Mont, đến nghĩa địa cha Lachaise đều thuộc thành nội Paris). Ông chọn thời gian vào lúc ngày tàn. Đám tang nào mà chẳng buồn, nhưng không gian, thời gian nay làm tăng thêm tính chất bi đát. Ánh sáng mờ mờ của ngôi giáo đường đã nhỏ lại thấp và tối, rồi đến quang cảnh ngày tàn với một buổi hoàng hôn ẩm ướt là thứ ánh sáng và màu sắc được chọn lựa để miêu tả đám tang. Ánh sáng và màu sắc ấy càng trở nên ảm đạm hơn khi cuối cùng xa xa về phía trung tâm thành phố đã lên đèn
Ánh đèn rực rỡ và cả âm thanh cái tổ ong rào rào là ở chỗ xa xa kia, còn nơi đây lặng lẽ đến rợn người. Nhà văn như cố tình bỏ qua không nhắc đến tiếng động: Không có tiếng xe ngựa, không có tiếng cuốc xẻng, không có âm vang những lời cầu kinh vì chúng chỉ được nhắc thoáng qua trong lời kể. Không phải ngẫu nhiên trong bài Đám tang lão Goriô nhà văn chủ yếu sử dụng ngôn ngữ gián tiếp của người kể chuyện, chỉ có ba lần lời nói trực tiếp vang lên, ba câu ngắn ngủi, ba lời đối thoại, nhưng là đối thoại một chiều, một lời của Christophe, một của vị linh mục và một của Rastisgnacs.
Christophe nói với Rastignar “Đúng thế đấy, cậu Euagene ạ. Ông cụ là người tử tế và đứng đắn, chưa bao giờ to tiếng không thể làm hại ai và chưa từng làm điều gì nên tội". Balzac đưa câu này vào đây thật đúng lúc. Nó gợi lên nghịch cảnh tâm lí. Người chết càng hiền lành tốt bụng bao nhiêu, đám tang này càng có vẻ xót xa trớ trêu bấy nhiêu. Ai mà không xúc động khi đọc đoạn trích Tình cha con? Goriô là “Chúa trời của tình phụ tử”. Ta cò thể liên hệ đoạn trích tình cha con ở đây. Lời nhận xét của Christophe không bù đắp được cái thiếu vắng của tình người là khía cạnh nhà văn đi sâu hơn khi miêu tả đám tang ông Goriô.
Vị linh mục nói: "Không có người đưa đám...". Gần đúng như thế nếu ta tạm gác sang một bên nhân vật Ratisguac. Thật mủi lòng phải chứng kiến một đám tang không có người đi đưa! Chẳng ai là người thân thích. Chỉ một nhóm người dưng đếm trên đầu ngón tay, hầu hết là những nhân vật phụ, không đáng để nhà văn đặt cho một cái tên, trừ Rastisgnac và Christophe. Đi theo chiếc xe chở người xấu số từ quán trọ đến nhà thờ thánh Saint Etienne chỉ có bốn người: Rastignac, Christophe và hai gã đô tùy. Lúc hành lễ có thêm bốn người nữa là hai vị linh mục, chú bé hát lễ và người bõ nhà thờ. Khi xe chuyển bánh đến nghĩa trang có thêm hai gia nhân trên hai chiếc xe ngựa không có người ngồi của Bá tước De Restaud và của Nam tước De Nucingen, nhưng lại bớt đi người bõ nhà thờ và một vị linh mục. Tới đây có thêm hai gã đào huyệt nữa, nhưng hai gã đô tùy chắc là quay về ngay theo với xe tang không đợi chôn cất xong, song không thấy người kể chuyện nhắc đến. Nhà văn khéo bố trí để số người ít ỏi kia lại cứ vơi đi dần: Mới đầu là bọn gia nhân của hai cô con gái cùng với vị linh mục và chú bé hát lễ sau khi đọc xong bài kinh ngắn ngủi. Rồi đến hai gã hát lễ sau khi vùi xong nấm mộ, cuối cùng Christophe cùng bỏ đi nốt, để lại một mình Rastignac và chàng sinh viên cũng không đứng ở bên mộ mà được nhà văn cho đi “về phía đầu nghĩa địa”.
Như ta biết, ngòi bút hiện thực của Balzac hết sức tỉ mỉ, hầu như không bỏ qua bất cứ chi tiết nào khi kể và tả. Dường như ông sử dụng bút pháp nghệ thuật hoàn toàn ngược lại ở đoạn trích Đám tang lão Goriô. Nhà văn tránh không tả. Bạn đọc không được biết gì về nhà thờ thánh Etienne Du Mont, bên ngoài cũng như nội thất, trừ chi tiết "Một giáo đường nhỏ, thấp và tốt”. Ta cũng chẳng được biết gì về quãng đường đi và quang cảnh nghĩa trang Piere - Lachaise, không kể hình ảnh "Thành phố Paris nằm khúc khuỷu dọc hai bà sông Seine” hiện ra trước mắt chàng sinh viên Rastignac.
Nhà văn chỉ kể, mà cũng kể rất lướt, không dựng lại một cảnh nào cả, nên ta không thể hình dung nghi lễ cử hành ở nhà thờ và việc chôn cất ở nghĩa trang ra sao. Những biện pháp nghệ thuật kể trên nhằm rút ngắn càng nhiều càng tốt đoạn văn miêu tả đám tang ông Goriô, để mọi người cảm nhận ngay trên trang giấy tính chất sơ sài quá đáng của mọi thủ tục tang lễ. Nghi lễ cử hành ở nhà thờ chỉ hai mươi phút ư? Ta cảm nhận được điều đó ngay ở số dòng ngắn ngủi nhà văn dành cho thủ tục này. Đếm số dòng dành cho việc chôn cất ở nghĩa trang cũng thấy được việc làm qua quýt.
Ông Goriô là nạn nhân đau khổ của thói đời đen bạc, mà các nhân vật khác dưới ngòi bút của Balzac đều ít nhiều bị biến chất đi trong xã hội đồng tiền. Hầu như tất cả đều hành dộng bằng tiền. Một đoạn văn không dài lắm mà bao nhiêu lần nhà văn nhắc đến tiền. Christophe gắn việc làm của mình với “mấy món tiền đãi công kha khá”, các vị nhà đạo tiến hành nghi lễ xứng đáng “với giá tiến bảy mươi quan... ”, bài kinh ngắn ngủi cầu cho ông cụ ở nghĩa trang do '‘chàng sinh viên trả tiền ”, hai gã đào huyệt mới hất được vài xẻng đất thì đã “đòi tiền đãi công” khiến Rastignac móc túi không còn đồng nào, buộc phải vay Christophe “hai mươi xu”. Balzac nhìn đời qua những con người ấy có đen tối quá không?
Hai con gái của Goriot không được nhà văn cho xuất hiện ở mấy trang cuối cùng của tiểu thuyết này, nhưng lại không thể không nói đến. Balzac ba lần nhắc đến họ khi thi hài của người quá cố sắp được chuyển bánhđến nhà thờ: "... cái hình ảnh thuộc về một thời mà Delphine và Anastasie còn bé bỏng, đồng trinh và trong trắng...”, ở trong nhà thờ, chàng sinh viên đã "hoài công tìm hai cô con gái...” khi xe tang sắp chuyển bánh đến nghĩa trang "... thì xuất hiện hai chiếc xe có treo huy hiệu nhưng không có người ngồi, một của Bá tước De Restaud và một của Nam tước De Nucingen. Lần đầu gợi về quá khứ, hai lần sau nhắc đến hiện tại: Thoạt tiên, người kể chuyện gọi họ bằng tên thời con gái Delphine và Anastasie. Cuối cùng, người kể chuyện thay bằng tên các đức ông chồng, Bá tước De Restaud và Nam tước De Nucingen.
Ý đồ nghệ thuật của nhà văn bộc lộ rõ ràng qua cách bố trí và sử dụng ngôn ngữ như trên. Nó gợi cho ta thấy được quá trình biến chất của những đứa con ấy. Mà nguyên nhân sâu xa là của xã hội thượng lưu. Chồng của cô chị là một nhà quý tộc, chồng của cô em là một chủ ngân hàng. Địa vị phu nhân và vợ của chủ ngân hàng giết chết Anastasie và Delphine trong tâm hồn họ. Thật bi đát cho người cha Goriot những đứa con như vậy. Ở cùng thành phố mà lánh mặt cha lúc cha còn sống. Xấu hổ vì cha nghèo; lúc cha ốm đau không đến thăm vì còn mãi những thú vui riêng khi cha chết không có mặt. Và đến bây giờ không đưa cha về nơi an nghỉ cuối cùng. Mà đấy là người cha thương con rất mực và “chưa làm điều gì nên tội”.
Chi tiết hai chiếc xe có huy hiệu mà không có người ngồi là hình ảnh rất đạt nhà văn đưa vào đám tang này. Nó vừa là sự có mặt vừa là sự vắng mặt của hai vợ chồng De Restaud và De Nucingen, nhưng chủ yếu là của hai bà vợ. Vắng mặt thật và có mặt giả. Nó gợi nhớ cho những ai quên là ông Goriot có hai cô con gái kia. Nó tăng thêm cho tính chất bi đát cho số phận và đám tang của người cha bất hạnh. Nếu không có hai chiếc xe ấy, chắc linh hồn người xấu số nằm trong quan tài kia đã đau đớn hơn nếu linh hồn vẫn tồn tại. Và những người chứng kiến đám tang ấy hay chúng ta dọc đến đoạn này đỡ xót xa hơn. Thời gian sẽ làm cho người đọc quên đi nhiều chi tiết trong tiếu thuyết Lão Goriô, thậm chí quên cả tên hai cô con gái. Nhưng chắc người ta sẽ nhớ mãi hình ảnh hai chiếc xe không!
câu 2
Công lao sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái là vô cùng to lớn, không sao kể xiết. Vì vậy, những người làm con khi đã khôn lớn, trưởng thành phải luôn ghi nhớ công lao trời biển ấy và báo đáp, phụng dưỡng cha mẹ. Đúng như những lời trong câu ca dao: “Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Bất kể ai cũng vậy, từ khi mới chào đời ta đã nhận được tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ và những người xung quanh. “Mang nặng đẻ đau” chín tháng mười ngày để rồi vỡ òa trong niềm vui và hạnh phúc khi nghe thấy tiếng khóc đầu đời của con. Còn gì vui sướng hơn khi sau bao nhiêu ngày tháng chờ đợi, thiên thần của cha mẹ đã ra đời. Và cũng từ đó, cha mẹ vất vả hơn khi phải chăm sóc con, lo cho con tất cả mọi thứ, thức trắng đêm trông nom khi con ốm. Cứ như vậy cho đến khi con “ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi”, thời gian trôi con lớn dần trong vòng tay yêu thương, chăm sóc của cha mẹ còn cha mẹ thì vất vả hơn vì vừa phải lo cho công việc vừa phải lo cho con. Nhưng có một điều mà chắc chắn ai cũng biết đó là cho dù vất vả, nặng nhọc đến đâu chỉ cần những đứa con luôn vui tươi, khỏe mạnh thì đó đã là niềm động viên, an ủi, tiếp thêm sức mạnh cho những người làm cha, làm mẹ rồi.
Công lao của cha mẹ thật vô cùng lớn lao, chính vì vậy con cái cần làm tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ ngay từ khi còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Khi còn nhỏ, bổn phận của con cái là phải biết vâng lời cha mẹ, chăm chỉ học tập rèn luyện để cha mẹ được vui lòng. Tuy còn nhỏ, chưa thể giúp gì nhiều cho cha mẹ nhưng việc phấn đấu để trở thành con ngoan trò giỏi chính là món quà to lớn dành cho cha mẹ của mình. Mặc dù có nhiều lúc cha mẹ có quát mắng ta nhưng suy cho cùng, những bậc làm cha làm mẹ chỉ muốn những điều tốt đẹp nhất cho con cái của mình. Có thể khi đó, chúng ta còn quá nhỏ để hiểu được một cách sâu xa những lời quát mắng đó là muốn tốt cho mình, nhưng khi đã trưởng thành, ta thầm cảm ơn những lời quát mắng đó đã giúp ta hiểu ra nhiều điều hơn. Khi con cái dần trưởng thành cũng là lúc cha mẹ ngày càng già yếu đi, đây chính là lúc những người làm con cần làm làm tròn chữ hiếu của mình, đó là phải phụng dưỡng, chăm sóc chu đáo cho cha mẹ của mình, có như vậy mới làm tròn chữ hiếu của đạo làm con.
Tuy nhiên không phải những người con nào cũng làm tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ. Có những người con xem cha mẹ của mình là gánh nặng khi họ già yếu đi, anh em trong cùng một gia đình đùn đẩy trách nhiệm nuôi cha mẹ hết cho người này rồi đến người khác, có một số người chọn cách đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão để không mất thời gian chăm sóc. Cha mẹ cả một đời vất vả vì con cái, chỉ mong lúc về già được an nhàn, sum họp bên con cháu, vậy mà những người con nỡ nhẫn tâm bỏ mặc cha mẹ trong sự cô đơn, mặc dù vẫn đầy đủ về cuộc sống vật chất nhưng lại thiếu thốn tình cảm, lúc nào cũng cảm thấy cô đơn.
Một lần nữa phải luôn tự nhắc nhở rằng, công lao, ơn nghĩa của cha mẹ là không gì có thể sánh nổi. Những người làm con phải luôn ghi nhớ công lao ấy và phải làm tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ, đừng để khi cha mẹ mãi mãi không còn trên thế gian này nữa thì mọi sự báo đáp đã muộn rồi.
Câu 1:Ngôi kể:thứ 3
Câu 2:Đề tài: phản ánh hiện thực và lòng dạ con người thời bấy giờ ở thủ đô paris tráng lệ
Câu 3:Qua câu văn đã gợi cho em cảm nhận được sự mong mỏi trong đó có thêm sự đau buồn như đến tê dại của lão khi sắp phải xa trần thế
Câu 4:Bởi vì sau khi ông tỉnh ngộ thì ông đã nhận ra những hành động và lời nói đã không còn được kiểm soát của mình thì ông đã rất ân hận và lại càng muốn yêu con mình hơn
Câu 5:Đoạn văn cuối khi miêu tả về lão thì lão là một người đáng thương và đau khổ khi sắp ra đi mà không gặp được con gái mình