Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Đề tham khảo cuối học kì I (Đề số 12) SVIP
(4,0 điểm) Đọc văn bản sau:
PHỞ
− Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúy. Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ. […]
− Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ, phở Trưởng ca, phở Tư,… Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thể người bán phở được cảm tình quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu: phở Gù, phở Lắp, phở Sứt,… cái khuyết điểm trên hình thù ấy đã chuyển thành một cái uy tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà Nội có nhiều sáng kiến để đặt tên cho những người họ yêu tin. […]
[…] Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở ngày nay, đã sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều … Ngày trước, anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày giò đêm đông tội lỗi trong ngõ khuất; có người rao lên nghe vui rền. Tại sao, bây giờ Hà Nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vắng hẳn đi? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thư quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta. Những tiếng rao ấy, một phần nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy.
[…] Đêm Hà Nội, nay thức khuya nhất vẫn là những hiệu phở […] Và cái món ăn Hà Nội đầu tiên … vẫn là cái món phở ngày xưa chúng ta vẫn ăn đủ cả rau mùi hành hoa đủ chua cay và sôi sùng sục. Tôi biết ở Nam Bộ vẫn có phở, phở hủ tíu, nhưng bát phở Bắc ăn ở đầu hè di cư không bao giờ có thể ngon được bằng bát phở cổ truyền Hà Nội ăn ngay bên lò than quả bàng đỏ lửa giữa ngàn năm văn vật này.
(Trích tùy bút Phở − Nguyễn Tuân, Báo Văn số 1, 10-5-1957, và số 2, 17-5-1957. In lại trong Cảnh sắc và hương vị đất nước, NXB Tác Phẩm Mới, 1988)
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên là gì?
Câu 2. Theo tác giả, việc đặt tên của các quán phở bao gồm những quy luật nào?
Câu 3. Tác giả đã nói về phở trên những phương diện nào? Qua những phương diện đó, hãy nêu nhận xét của em về cái nhìn của tác giả đối với món ăn này.
Câu 4. Phát biểu đề tài, chủ đề của văn bản.
Câu 5. Qua văn bản, tác giả thể hiện tình cảm gì đối với món ăn thấm đượm tinh thần dân tộc này?
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (0,5 điểm)
Phương thức biểu đạt chính: Thuyết minh.
Câu 2. (0,5 điểm)
Việc đặt tên quán phở bao gồm những quy luật sau:
− Dùng tên cúng cơm của người chủ hoặc tên con để đặt cho tên gánh, tên hiệu. Ví dụ: phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ,...
− Lấy một đặc điểm tật nguyền trên cơ thể người bán phở để đặt cho tên gánh, tên hiệu. Ví dụ: phở Gù, phở Lắp, phở Sứt,...
Câu 3. (1,0 điểm)
− Tác giả đã nói về phở trên những phương diện sau:
+ Thời điểm thích hợp để ăn phở: Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được.
+ Những quy luật trong việc đặt tên cho quán phở: Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng,... người sành.
+ Sự mai một của tiếng rao bán phở trong đời sống hiện nay: Tại sao, bây giờ Hà nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vắng hẳn đi?
− Cái nhìn của tác giả về phở: Cái nhìn trân trọng, yêu quý và cũng xen chút tiếc nuối vì trong đời sống hiện nay phở đã mất đi phần nào những yếu tố bình dị, đặc trưng của nó.
Câu 4. (1,0 điểm)
− Đề tài: Phở.
− Chủ đề: Ca ngợi món phở − một món ăn truyền thống đặc sắc, tinh tế và gắn bó sâu sắc với đời sống của người Việt, đặc biệt là người Hà Nội.
Câu 5. (1,0 điểm)
− Tình cảm của tác giả đối với phở:
+ Nguyễn Tuân thể hiện sự yêu mến, trân trọng những gì bình dị mà thân thuộc của món phở Hà Nội.
+ Tác giả cũng thể hiện sự tự hào, sự hoài niệm về món ăn thấm đượm tinh thần dân tộc này.
Câu 1. (2,0 điểm) Từ nội dung của văn bản ở phần Đọc hiểu, hãy viết đoạn văn ngắn (khoảng 150 chữ) bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc của em về món phở.
Câu 2. (4,0 điểm) Viết bài văn biểu cảm về một sự việc mà em nhớ mãi.
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn (0,25 điểm):
− Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 150 chữ) của đoạn văn.
− Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng − phân − hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm): Ghi lại cảm xúc, suy nghĩ về món phở.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận (1,5 điểm):
Gợi ý:
− Phở cũng như những món ăn truyền thống của người Việt Nam, tuy nhìn đơn giản, mộc mạc nhưng chất chứa sau nó là sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng khâu chuẩn bị, chế biến. Để có nước dùng trong, thanh ngọt, người nấu phải hầm xương với một số hương liệu như thảo quả, hành tây, đại hồi,... trong một thời gian dài. Để có một bát phở đẹp mắt, người làm phải thái riêng phần lá hành, còn phần ngọn thì tước thành những miếng hành trắng dài, nhỏ, thơm ngon. Để khách hàng có thêm nhiều sự lựa chọn, người bán phải chế biến nhiều phần thịt bò. Và còn vô vàn những công việc khác nữa mới có thể cho ra một bát phở nóng hổi, thơm ngon, đẹp mắt.
− Cả một quá trình chuẩn bị, chế biến như vậy cũng đủ cho em thấy được sự tận tâm, tỉ mỉ của người bán phở. Chính vì thế, mỗi khi thưởng thức món ăn này, em càng thêm trân quý công sức, sự tận tâm của người bán phở, thêm yêu món ăn đượm hồn dân tộc này.
Câu 2.
a. Xác định được kiểu bài (0,25 điểm):
Xác định đúng kiểu bài: Bài văn biểu cảm.
b. Xác định được yêu cầu của đề bài (0,25 điểm):
Xác định đúng yêu cầu của đề: Biểu cảm về một sự việc mà em nhớ mãi.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để triển khai bài viết (3,5 điểm):
– Xác định được các ý chính của bài viết.
– Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục 3 phần của bài văn biểu cảm:
* Mở bài:
– Giới thiệu về sự việc mà em có ấn tượng đặc biệt, ghi nhớ sâu sắc.
– Bày tỏ tình cảm, ấn tượng của em về sự việc đó.
* Thân bài:
– Trình bày tình cảm, suy nghĩ về những đặc điểm nổi bật của sự việc ấy.
– Nêu ấn tượng của em về sự việc đặc biệt đó.
* Kết bài: Khẳng định lại tình cảm, suy nghĩ của em đối với sự việc ấy.