Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Đề kiểm tra cuối học kì I (Đề số 6) SVIP
(4,0 điểm) Đọc văn bản sau.
CHƠI PHÚ QUỐC
Con tàu từ từ rẽ sóng... tiến lên. Đã ba tiếng đồng hồ rồi, chúng tôi lênh đênh ở biển khơi bát ngát. Trông ra quanh mình toàn một màu xanh nhạt, mặt nước liền chân mây. Thỉnh thoảng, một vài cù lao loáng thoáng ở chỗ mênh mông trời nước. Về phía tây, rặng núi Tà Lơn bệ vệ nằm dài trong mây khói. Đảo Phú Quốc. Một vệt xanh xanh to lớn nằm chắn ngang phía trước, mây toà lờ mờ, như dán dính với da trời... Đảo Phú Quốc! Cảnh bấy lâu trong mộng tưởng thì kìa đã hiện ra trước mắt.
Con tàu từ từ rẽ sóng... tiến lên. Tiếng sóng vỗ vào bệ tàu như một khúc nhạc hùng hồn oanh liệt. Chúng tôi cảm thấy lòng sung sướng, mạnh mẽ. Tựa vào bệ tàu, đăm đăm tôi ngó về phía trước: Nước biển một màu xanh bóng như dầu lụt chân mây. Hôm nay trời râm mát, mấy đám mây đen lơ lửng bóng tối, tưởng tượng như con chim đại bàng to lớn xoè đôi cánh bay lướt qua biển Nam Minh.
Con tàu từ từ rẽ sóng... tiến lên. Cảnh mờ mờ dần dần xô lùi lại. Bấy giờ đã thấy rõ ràng màu cây lá xanh biếc gần với màu nước biển xanh dờn, một vệt cát trắng chạy dài ở giữa. Hàm Ninh đã ở trước mặt. Tàu không áp bờ được vì bờ còn xa.
Quận lị Phú Quốc ở Dương Đông. Dương Đông ở về phía bên tây đảo. Về mùa này, sóng to gió lớn, tàu thuyền vô cửa bất tiện nên phải đỗ ở đây rồi đáp ô tô qua Dương Đông. Ngồi trên ca nô dòm xuống: nước trong như lọc, thấy tận đáy, những con chang chang sứa biển ngo ngoe đang bò, chúng nó sinh hoạt trong cái thế giới thuỷ tinh. Gần mé bãi, trên giàn cây của người thuyền chài cắm để phơi lưới, một đàn chim nhạn đậu ríu rít rỉa lông, nghe tiếng chèo bơi bì bõm, giật mình cất cánh một loạt bay vù.
Đến bờ đã có ô tô đón sẵn. Chúng tôi đáp xe qua Dương Đông. Con đường quan lộ tuy chẳng được khang trang rộng rãi lắm, nhưng được cái sạch sẽ sáng sủa.
Xe chạy độ non một tiếng đồng hồ thì đến Dương Đông. Tính ra cuộc hành trình mất sáu tiếng đồng hồ chẵn. Sáu giờ sáng, khởi hành ở Hà Tiên, 12 giờ trưa đã ở Dương Đông rồi! Nhớ lại những chuyện nguy hiểm khó khăn của người đi biển bằng thuyền buồm nói lại mà chúng tôi lấy làm sung sướng quá. Trong sáu tiếng đồng hồ đi một cách bình yên mà đã được trải qua cái cảnh bềnh bồng trên mặt biển, được hít thở cái không khí thanh tân man mác chốn biển khơi, và được trông thấy bao nhiêu cảnh vật thanh kì ở chốn trời nước gió mây thần tiên xa lạ, đối với cái đời êm lặng kín đáo của người con gái ở chốn buồng khuê, thật là một dịp may đặc biệt.
Dương Đông ở về phía tây đảo Phú Quốc, một dải đất màu mỡ, cây cỏ xanh tươi, nhà cửa ở chen chúc nhau, một con sông xinh xinh chắn đôi, mơn man chảy trong lòng cát trắng.
Cơm nước nghỉ ngơi xong, chiều lại rủ nhau đi tắm biển. Bãi cát trắng phau, chạy dài hàng mấy nghìn thước. Ngoài khơi xa, lác đác mấy chiếc thuyền đánh cá, cánh buồm trắng in vào đám mây hồng. Bên rặng núi mờ xanh, nhởn nhơ đàn nhạn lạc, tạc thành một bức tranh ảnh khổng lồ tuyệt đẹp.
Chúng tôi nô giỡn với làn sóng bạc trong khoảng trời nước mênh mông thoải thích. Bỗng một đám mây đen kéo đến phá cuộc vui chơi. Sắp có mưa. Cả bọn cùng dắt nhau về. Đến nhà thì trời mưa vừa lấm tấm đổ hạt. Trời tối. Mưa vừa ngớt hạt thì chúng tôi lại ra đi.
Chúng tôi đi trong các ngõ đường để xem cảnh đêm nơi hòn bãi. Trăng mười một. Đêm mờ, sương lạnh, ở đây thật có cái vẻ tĩnh mịch vô cùng. Trên mặt biển, lác đác có những thuyền con đi "thẻ" mực, ánh đèn soi xuống đáy nước, xa trông lấp lánh như gương. Người ở đây làm việc thật không mấy lúc nghỉ ngơi, những việc nặng nhọc thì làm về ban ngày, còn những việc nhẹ nhàng thì làm về buổi tối. Dưới ngọn đèn mờ, người vá lưới, kẻ chuốt mây, vừa làm vừa chuyện vãn, trông có vẻ sung sướng, ung dung, an vui về công việc.
Trời sáng. Không được cái cảnh bình minh trong trẻo như lòng ao ước đêm rồi. Trời lấm tấm mưa. Mặc gió mưa, vì không lẽ để lỡ cuộc đi chơi nên sau khi điểm tâm xong và đi dạo qua một vòng chợ, chúng tôi khởi hành. Suối Đá ở trên con đường Hàm Ninh – Dương Đông. Con đường này hôm qua đã có đi rồi, nhưng ngồi xe, nên không xem ngắm được phong cảnh hai bên.
Cũng con đường này hôm qua, thì cây cỏ như vô tình, mà hôm nay cảnh vật dường như hữu ý đón chào. Đi độ hơn cây số thì đến giếng Tiên. Giếng Tiên, huyền diệu lạ lùng như cái tên của nó, là một vũng nước nhỏ cạn ở kề liền bờ sông nước mặn, mà nước vẫn ngon ngọt và đầy tràn luôn. Bỏ qua về khoa học, thì nó có tính cách thần tiên huyền diệu như thế, nên gọi là giếng Tiên vậy.
Từ giếng Tiên đến suối Đá còn hơn ba cây số nữa, thỉnh thoảng có một cái vườn tiêu, còn hai bên toàn là rừng sim cả. Chúng tôi từng được nghe nói lại cái thú mùa sim đi hái trái: cái thú vui vẻ nên thơ lắm, trên cành nặng trĩu trái cây, điểm có mấy chùm hoa nở muộn trắng trắng hồng hồng. Đây một cô bé xinh tay mang giỏ tay hái trái, nét mặt ngây thơ hớn hở; kia một người thiếu phụ luẩn quẩn dưới gốc cây, nét mặt vô tư lự ở giữa chốn bông trái đầy rẫy nhẹ nhàng uốn éo, rồi cất tiếng hát ca véo von êm ái. Giờ phút ấy tưởng như đã lạc loài vào chốn rừng tiên cảnh lạ.
Nghe nói mà thích quá, những ước ao được một dịp đi hái sim. Nhưng nay đây, mùa này, thì chỉ có cành không trơ trọi thổi qua một ngọn gió vô tình.
Hôm nay trời râm mát, nên đi đường dễ chịu lắm. Lại hai bên toàn là cảnh đẹp, mải xem ngắm mà quên mỏi chân. Cái chân được cha mẹ "cũng" không mấy khi để dẫn trên đường cát bụi. Nghĩ cái lòng thương con của cha mẹ thật là vô cùng, không nói cái lòng thương đó nên như thế hay không nên như thế.
(Theo Mộng Tuyết, Báo Nam Phong, số 188, ngày 16-6-1934)
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5.
Câu 1. Văn bản "Chơi Phú Quốc" thuộc kiểu văn bản gì?
Câu 2. Khi đặt chân đến bãi biển Hàm Ninh, hình ảnh nào đã gây ấn tượng mạnh mẽ với tác giả về sự trong lành của nước biển?
Câu 3. Xác định ngôi kể của văn bản "Chơi Phú Quốc". Việc sử dụng ngôi kể này có tác dụng gì?
Câu 4. Tác giả đã nhắc đến những hoạt động gì của người dân Phú Quốc? Những hoạt động đó cho thấy điều gì về cuộc sống của họ?
Câu 5. Qua văn bản "Chơi Phú Quốc", em rút ra những bài học gì về ý nghĩa của việc trải nghiệm, khám phá những vùng đất mới? (Trình bày ngắn gọn khoảng 5 − 7 dòng)
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (0,5 điểm)
Văn bản "Chơi Phú Quốc" thuộc kiểu văn bản du kí.
Câu 2. (0,5 điểm)
Khi đặt chân đến bãi biển Hàm Ninh, hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ với tác giả về sự trong lành của nước biển là "nước trong như nước lọc, thấy tận đáy, những con chang chang sứa biển ngo ngoe đang bò, chúng nó sinh hoạt trong cái thế giới thuỷ tinh.".
Câu 3. (1,0 điểm)
− Văn bản "Chơi Phú Quốc" sử dụng ngôi kể thứ nhất số nhiều, người kể chuyện xưng "chúng tôi".
− Tác dụng của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất:
+ Giúp người đọc cảm nhận được câu chuyện một cách chân thực, gần gũi như đang cùng tác giả trải nghiệm.
+ Thể hiện trực tiếp cảm xúc, suy nghĩ của nhóm người trải nghiệm, làm cho bài viết trở nên sinh động và có hồn hơn.
Câu 4. (1,0 điểm)
− Những hoạt động của người dân Phú Quốc được nhắc đến trong văn bản:
+ Đánh cá.
+ Phơi lưới.
+ Đi "thẻ" mực vào ban đêm.
+ Vá lưới, chuốt mây vào buổi tối.
+ Hái trái sim.
− Cuộc sống của những người dân Phú Quốc:
+ Cuộc sống của người dân Phú Quốc gắn liền với biển cả và thiên nhiên, họ làm việc chăm chỉ, cần cù từ sáng đến đêm khuya cả những công việc nặng nhọc lẫn nhẹ nhàng.
+ Người dân vẫn tìm thấy niềm vui, sự sung sướng, ung dung, an vui trong công việc và cuộc sống của mình.
Câu 5. (1,0 điểm)
Học sinh trình bày suy nghĩ của bản thân về ý nghĩa của việc trải nghiệm, khám phá những vùng đất mới. Gợi ý:
− Trải nghiệm giúp ta mở mang tầm mắt, hiểu biết thêm nhiều cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước.
− Khám phá vùng đất mới đem lại những cảm xúc mới mẻ, hứng khởi và niềm vui trong cuộc sống.
− Hành trình trải nghiệm giúp ta thêm trân trọng vẻ đẹp quê hương, đất nước và con người lao động.
− Những hành trình trải nghiệm là cơ hội để rèn luyện sự quan sát, cảm nhận, bồi dưỡng tâm hồn và tình yêu cuộc sống.
Câu 1. (2,0 điểm) Viết đoạn văn ngắn (khoảng 150 chữ) nêu cảm nhận về văn bản "Ảnh Bác" của tác giả Trần Đăng Khoa.
ẢNH BÁC
Nhà em treo ảnh Bác Hồ
Bên trên là một lá cờ đỏ tươi
Ngày ngày Bác mỉm miệng cười
Bác nhìn chúng cháu vui chơi trong nhà
Ngoài sân có mấy con gà
Ngoài vườn có mấy quả na chín rồi
Em nghe như Bác dạy lời
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa
Trồng rau, quét bếp, đuổi gà
Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra nằm ngồi
*
Bác lo bao việc trên đời
Ngày ngày Bác vẫn mỉm cười với em.
(Trần Đăng Khoa)
Câu 2. (4,0 điểm) Viết bài văn kể lại một kỉ niệm sâu sắc của em với bạn bè.
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (2,0 điểm)
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn (0,25 điểm):
− Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 150 chữ) của đoạn văn.
− Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng − phân − hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm): Nêu cảm nhận về bài thơ "Ảnh Bác" của Trần Đăng Khoa.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận (1,5 điểm):
Gợi ý:
− Hình ảnh Bác Hồ trong bức ảnh:
+ Bức ảnh Bác được treo dưới một lá cờ đỏ tươi, gợi không khí thiêng liêng, thể hiện niềm tự hào của cả gia đình.
+ Hình ảnh "Bác mỉm miệng cười" xuất hiện nhiều lần, gợi nụ cười hiền hậu, bao dung, chứa chan tình yêu thương.
+ Dưới ánh nhìn trẻ thơ, Bác như đang hiện diện trong ngôi nhà nhỏ, dõi theo từng việc làm, từng niềm vui của bạn nhỏ.
=> Học sinh nêu cảm xúc: Xúc động và kính yêu trước hình ảnh Bác Hồ hiền từ, gần gũi như người thân trong gia đình; cảm nhận được tình cảm ấm áp, thiêng liêng mà Bác dành cho thiếu nhi.
− Suy nghĩ, cảm xúc và tình cảm của bạn nhỏ:
+ Cảm nhận được sự ân cần, dịu dàng của Bác: "Em nghe như Bác dạy lời / Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa".
+ Cảm thấy xúc động và biết ơn sâu sắc đối với Bác, dù "Bác lo bao việc trên đời" thì em vẫn cảm thấy được Bác dõi theo, dặn dò từng việc nhỏ.
+ Cảm thấy ấm áp, gần gũi như có Bác trong nhà, Bác không chỉ ở trong bức ảnh mà còn trong trái tim mỗi người.
+ Cảm thấy tự hào và có trách nhiệm, muốn sống tốt hơn, chăm học chăm làm, nghe lời cha mẹ, góp phần nhỏ bé xứng đáng với tình yêu thương của Bác.
=> Học sinh nêu cảm xúc: Bài thơ khơi dậy lòng kính trọng, biết ơn và niềm tin yêu tha thiết dành cho vị Cha già của dân tộc, người đã hi sinh trọn đời cho hạnh phúc của nhân dân và tương lai của thiếu nhi. Qua những vần thơ hồn nhiên mà chân thành, tình cảm thiêng liêng với Bác trở nên gần gũi, trong sáng, nuôi dưỡng trong mỗi học sinh niềm tự hào, ý thức học tập và rèn luyện để xứng đáng với tình yêu thương bao la của Người.
Câu 2. (4,0 điểm)
a. Xác định được kiểu bài (0,25 điểm):
Xác định đúng kiểu bài: Bài văn tự sự.
b. Xác định được yêu cầu của kiểu bài (0,25 điểm):
Xác định đúng yêu cầu của đề: Kể lại một kỉ niệm sâu sắc của em với bạn bè.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để triển khai bài viết (3,5 điểm):
– Xác định được các ý chính của bài viết.
– Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục 3 phần của bài văn tự sự:
* Mở bài:
– Giới thiệu về kỉ niệm em định kể.
– Nêu khái quát ấn tượng và cảm xúc của em về kỉ niệm đó.
* Thân bài: Kể lại chi tiết, cụ thể về kỉ niệm đó bằng cách làm rõ những nội dung sau:
– Nêu địa điểm và thời gian xảy ra câu chuyện, các nhân vật liên quan.
– Kể lại chi tiết, cụ thể diễn biến câu chuyện.
– Nêu ấn tượng, cảm xúc và suy nghĩ của em về kỉ niệm đó.
* Kết bài:
– Nêu cảm nghĩ và bài học của em về kỉ niệm đó.
– Nói lên mong muốn của bản thân từ kỉ niệm ấy.