Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Khám phá văn bản SVIP
NGUYỄN TRÃI – NHÀ NGOẠI GIAO, NHÀ HIỀN TRIẾT, NHÀ THƠ
A-ma-đu Ma-ta Mơ Bâu
I. THỰC HÀNH ĐỌC
II. KHÁM PHÁ VĂN BẢN
- Chủ đề của văn bản và quan điểm của tác giả:
NGUYỄN TRÃI – NHÀ NGOẠI GIAO, NHÀ HIỀN TRIẾT, NHÀ THƠ
A-ma-đu Ma-ta Mơ Bâu
Theo đề nghị của Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam, Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên họp quốc (UNESCO) đã quyết định ghi tên Nguyễn Trãi vào danh sách những danh nhân thế giới được kỉ niệm trong năm 1980. Việc tổ chức lần thứ 600 năm sinh của nhà thơ cổ điển này của Việt Nam chứng tỏ những cố gắng của UNESCO nhằm đưa vào di sản thế giới những đại biểu ưu tú nhất của mỗi nền văn hoá dân tộc. Thật vậy, thời đại chúng ta là thời đại đầu tiên trong lịch sử lấy toàn bộ những biểu tượng tinh thần hay vật chất, văn học hay nghệ thuật của thế giới làm một di sản không thể chia cắt của nhân loại.
Các nhà thơ của một đất nước thường là sứ giả của dân tộc họ. Họ càng xứng đáng với danh hiệu ấy khi, hàng thế kỉ sau lúc họ qua đời, những điều gửi gắm của họ, đêm đêm vẫn thức dậy trong tâm trí của những thế hệ nối tiếp. Đó chính là vai trò dành cho sự nghiệp của Nguyễn Trãi trong lịch sử Việt Nam. Tiếng nói của ông vẫn nguyên vẹn trong đó, một cách tuyệt diệu, tiếng nói "của một nhà yêu nước vĩ đại, da diết trong lòng Tổ quốc mình.".
Nhà thơ Việt Nam, đồng thời là một thành viên kiệt xuất của cộng đồng loài người ấy, để lại cho chúng ta bài học gì? Có nên phân biệt tách bạch ở ông, nhà ngoại giao, nhà hiền triết và nhà thơ không?
Những người chuyên nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Trãi khẳng định rằng không thể tiến hành một sự cắt xén trong công trình của ông. Mỗi thành tố trong bộ óc sớm uyên thâm của ông gắn liền với những thành tố khác: nhà thơ không tách khỏi nhà ngoại giao; nhà triết học, khỏi nhà chính trị; nhà đạo đức học, khỏi nhà hành động. Cuộc đời và sự nghiệp của ông, hành vi và tư tưởng của ông cùng tiến triển và chín muồi cho tới lúc cùng hoàn mãn, theo những đòi hỏi của thế kỉ XV ở Việt Nam.
Nguyễn Trãi sống từ 1380 đến 1442. Vào thời kì này, Việt Nam đã là một quốc gia lâu đời với những tín ngưỡng, phong tục, thể chế, văn học và nghệ thuật biểu thị một cá tính dân tộc đặc thù. Sinh ra trong một gia đình nhà nho, Nguyễn Trãi đỗ tiến sĩ năm hai mươi tuổi. Lúc trẻ, ông đưa tài năng phục vụ triều đại nhà Hồ. Nhưng sau khi nhà Hồ thất bại, ông toàn tâm toàn ý gắn bó với triều đại của vua Lê Lợi.
Viết theo một văn phong cực kì giản dị, Quân trung từ mệnh tập biểu thị sáng chói cơ sở tư tưởng của Nguyễn Trãi. Đối với ông, "đạo làm tướng phải lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm nền". Nguyễn Trãi đưa vào "binh thư" truyền thống một phạm vi đặc biệt, bộc lộ tầm rộng lớn của quan điểm nhân đạo của ông: đó là khái niệm "đánh vào lòng người". Theo ông, vây hãm thành trì cũng quan
Lo trước bình sinh ôm một chí, Thức chong ngồi lạnh chỉ ôm chiên. |
Ông hết lòng nâng niu năng lực sáng tạo của nhân dân, mà ông thường ví như "
Ở Nguyễn Trãi, niềm ưu ái ấy - vốn là cái nguồn khích lệ cuộc đời chịu đựng thiếu thốn và hi sinh của ông - kết hợp với một quan điểm khoáng đạt về thiên nhiên, như hai câu thơ dưới đây bộc lộ:
Đêm vắng tựa không xem tạo biển, Gió thu thừa hứng cưỡi kình bơi. |
Ở Việt Nam, người ta thường xem bài Đại cáo bình Ngô là kiệt tác của Nguyễn Trãi. Đây là một tác phẩm sử thi lớn, trong đó ngày nay người Việt Nam vẫn còn tìm thấy một cách xúc động một trong những ngọn nguồn tươi mát nhất của cá tính dân tộc. Ngay từ những câu đầu tiên, Việt Nam được giới thiệu và ca ngợi với tất cả những gì tạo nên tính đặc thù của đất nước:
Xét như nước Đại Việt ta, Thật là một nước văn hiến. Bờ cõi non sông đã riêng, Phong tục Bắc Nam cũng khác. |
Ngoài Quân trung từ mệnh tập nổi tiếng và Dư địa chí - một tiểu luận địa lí học xưa nhất của Việt Nam - ngoài thơ bằng tiếng Hán cổ, Nguyễn Trãi còn có một tập thơ 254 bài viết bằng tiếng Việt. Cùng với ý nghĩa trữ tình thực sự của những viên ngọc này, là giá trị to lớn của chúng trên các bình diện ngữ văn học, ngôn ngữ
Trong những ngày cuối cùng, sau khi làm tròn bổn phận, Nguyễn Trãi, nhà hiền triết hơn là nhà thơ, về ẩn ở Côn Sơn, mảnh đất thanh bình đã từng để lại dấu ấn cho quãng đời niên thiếu của ông. Đề tài chủ yếu trong thơ ông là vẻ đẹp của nơi ẩn dật, niềm vui bốn mùa trong cảnh trí xung quanh. [...] Ông tự ví mình như một chiếc thuyền con bị những sự nhiễu nhương trên vũ đài chính trị vùi dập:
Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ, Trời ban tối ước về đâu. |
Phía sau cái giọng ưu tư và thất vọng ấy, đó đây lại nổi lên niềm phấn chấn của một cá tính ít cam chịu nhẫn nhục:
Bui một tấc lòng tru ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông. |
Con thuyền "ưu ái cũ" ấy, một sáng sớm, đã tan vỡ ở Lệ Chi viên, gần Côn Sơn.
Sáu trăm năm sau, nỗi thao thức canh cánh của nhà hành động và nhà thơ Nguyễn Trãi vẫn là nỗi thao thức canh cánh bên lòng của tất cả những người yêu công lí và nhân đạo trên đời này.
(Nguyễn Trọng Định dịch, in trong Nguyễn Trãi - Về tác gia và tác phẩm,
Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu), NXB Giáo dục, 1999, tr. 1023 - 1026)
Chủ đề của văn bản là gì?
- Nguyễn Trãi là một nhà ngoại giao, nhà hiền triết, nhà thơ không thể tách rời. Cả ba cùng hỗ trợ lẫn nhau để thể hiện trọn vẹn và sâu sắc nhất tấm lòng yêu nước thương dân của ông.
+ Đầu tiên phải kể đến Quân trung từ mệnh tập, tập văn chính luận nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Áng văn này vừa thể hiện tài ngoại giao, địch vận "đánh vào lòng người", vừa thể hiện sự minh triết của nhà chiến lược - "đạo làm tướng phải lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm nền".
+ Tiếp theo đó tác giả bình luận về thơ Nguyễn Trãi: những bài thơ vừa thể hiện trí tuệ sáng suốt, nhìn thấy được sức mạnh của lòng dân như "sức nước chở được thuyền mà cũng có thể lật úp được thuyền", hiểu rõ lẽ tới lui khi về ẩn dật ở Côn Sơn lại cũng vừa dào dạt trữ tình chan chứa tình cảm yêu dân (Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông).
=> Tác giả đã chứng minh được luận điểm quan trọng nhất: nhà ngoại giao, nhà hiền triết, nhà thơ đã hòa quyện chặt chẽ nơi con người một lòng ưu ái với đất nước, nhân dân.
- Tác giả đã sử dụng nhiều ẩn dụ với hình ảnh tượng hình, những động từ, tính từ có sức biểu cảm mạnh khiến người đọc cảm nhận sâu sắc về tài năng, tấm lòng cũng như bi kịch cuộc đời của Nguyễn Trãi, đồng thời cảm nhận sâu sắc về sự đồng cảm và ngưỡng mộ mà người viết dành cho ông.
+ "Những điều gửi gắm của họ, đêm đêm vẫn thức dậy trong tâm trí của những thế hệ nối tiếp"/ "ông hết lòng nâng niu năng lực sáng tạo của nhân dân"/ "Cùng với ý nghĩa trữ tình thực sự của những viên ngọc mài…".
- Bài viết ca ngợi Nguyễn Trãi với tư cách là một đại biểu ưu tú của dân tộc Việt Nam, cũng đồng thời là một "thành viên kiệt xuất của cộng đồng loài người". Sự nghiệp văn chương của ông cho thấy ông vừa là nhà ngoại giao, nhà hiền triết, vừa là nhà thơ luôn dành trọn tình yêu cho đất nước, nhân dân.
- Những câu văn thể hiện tình cảm của tác giả đối với Nguyễn Trãi:
+ Tiếng nói "của một nhà yêu nước vĩ đại, da diết trong lòng Tổ quốc".
+ Thành viên kiệt xuất của cộng đồng loài người.
+ Bộ óc sớm uyên thâm.
+ Quân trung từ mệnh tập – biểu thị sáng chói cơ sở tư tưởng của Nguyễn Trãi.
+ Ở Việt Nam người ta thường xem Bình ngô đại cáo là kiệt tác của Nguyễn Trãi. Đây là tác phẩm sử thi lớn, trong đó ngày nay người Việt Nam vẫn còn tìm thấy một cách xúc động một trong những ngọn nguồn tươi mát nhất của cá tính dân tộc.
+ Sáu trăm năm sau nỗi thao thức canh cánh của nhà hành động và nhà thơ Nguyễn Trãi vẫn là nỗi thao thức canh cánh trong lòng tất cả mọi người yêu công lí và nhân đạo trên đời này.
NGUYỄN TRÃI – NHÀ NGOẠI GIAO, NHÀ HIỀN TRIẾT, NHÀ THƠ
A-ma-đu Ma-ta Mơ Bâu
Theo đề nghị của Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam, Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên họp quốc (UNESCO) đã quyết định ghi tên Nguyễn Trãi vào danh sách những danh nhân thế giới được kỉ niệm trong năm 1980. Việc tổ chức lần thứ 600 năm sinh của nhà thơ cổ điển này của Việt Nam chứng tỏ những cố gắng của UNESCO nhằm đưa vào di sản thế giới những đại biểu ưu tú nhất của mỗi nền văn hoá dân tộc. Thật vậy, thời đại chúng ta là thời đại đầu tiên trong lịch sử lấy toàn bộ những biểu tượng tinh thần hay vật chất, văn học hay nghệ thuật của thế giới làm một di sản không thể chia cắt của nhân loại.
Các nhà thơ của một đất nước thường là sứ giả của dân tộc họ. Họ càng xứng đáng với danh hiệu ấy khi, hàng thế kỉ sau lúc họ qua đời, những điều gửi gắm của họ, đêm đêm vẫn thức dậy trong tâm trí của những thế hệ nối tiếp. Đó chính là vai trò dành cho sự nghiệp của Nguyễn Trãi trong lịch sử Việt Nam. Tiếng nói của ông vẫn nguyên vẹn trong đó, một cách tuyệt diệu, tiếng nói "của một nhà yêu nước vĩ đại, da diết trong lòng Tổ quốc mình.".
Nhà thơ Việt Nam, đồng thời là một thành viên kiệt xuất của cộng đồng loài người ấy, để lại cho chúng ta bài học gì? Có nên phân biệt tách bạch ở ông, nhà ngoại giao, nhà hiền triết và nhà thơ không?
Những người chuyên nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Trãi khẳng định rằng không thể tiến hành một sự cắt xén trong công trình của ông. Mỗi thành tố trong bộ óc sớm uyên thâm của ông gắn liền với những thành tố khác: nhà thơ không tách khỏi nhà ngoại giao; nhà triết học, khỏi nhà chính trị; nhà đạo đức học, khỏi nhà hành động. Cuộc đời và sự nghiệp của ông, hành vi và tư tưởng của ông cùng tiến triển và chín muồi cho tới lúc cùng hoàn mãn, theo những đòi hỏi của thế kỉ XV ở Việt Nam.
Nguyễn Trãi sống từ 1380 đến 1442. Vào thời kì này, Việt Nam đã là một quốc gia lâu đời với những tín ngưỡng, phong tục, thể chế, văn học và nghệ thuật biểu thị một cá tính dân tộc đặc thù. Sinh ra trong một gia đình nhà nho, Nguyễn Trãi đỗ tiến sĩ năm hai mươi tuổi. Lúc trẻ, ông đưa tài năng phục vụ triều đại nhà Hồ. Nhưng sau khi nhà Hồ thất bại, ông toàn tâm toàn ý gắn bó với triều đại của vua Lê Lợi.
Viết theo một văn phong cực kì giản dị, Quân trung từ mệnh tập biểu thị sáng chói cơ sở tư tưởng của Nguyễn Trãi. Đối với ông, "đạo làm tướng phải lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm nền". Nguyễn Trãi đưa vào "binh thư" truyền thống một phạm vi đặc biệt, bộc lộ tầm rộng lớn của quan điểm nhân đạo của ông: đó là khái niệm "đánh vào lòng người". Theo ông, vây hãm thành trì cũng quan
Lo trước bình sinh ôm một chí, Thức chong ngồi lạnh chỉ ôm chiên. |
Ông hết lòng nâng niu năng lực sáng tạo của nhân dân, mà ông thường ví như "
Ở Nguyễn Trãi, niềm ưu ái ấy - vốn là cái nguồn khích lệ cuộc đời chịu đựng thiếu thốn và hi sinh của ông - kết hợp với một quan điểm khoáng đạt về thiên nhiên, như hai câu thơ dưới đây bộc lộ:
Đêm vắng tựa không xem tạo biển, Gió thu thừa hứng cưỡi kình bơi. |
Ở Việt Nam, người ta thường xem bài Đại cáo bình Ngô là kiệt tác của Nguyễn Trãi. Đây là một tác phẩm sử thi lớn, trong đó ngày nay người Việt Nam vẫn còn tìm thấy một cách xúc động một trong những ngọn nguồn tươi mát nhất của cá tính dân tộc. Ngay từ những câu đầu tiên, Việt Nam được giới thiệu và ca ngợi với tất cả những gì tạo nên tính đặc thù của đất nước:
Xét như nước Đại Việt ta, Thật là một nước văn hiến. Bờ cõi non sông đã riêng, Phong tục Bắc Nam cũng khác. |
Ngoài Quân trung từ mệnh tập nổi tiếng và Dư địa chí - một tiểu luận địa lí học xưa nhất của Việt Nam - ngoài thơ bằng tiếng Hán cổ, Nguyễn Trãi còn có một tập thơ 254 bài viết bằng tiếng Việt. Cùng với ý nghĩa trữ tình thực sự của những viên ngọc này, là giá trị to lớn của chúng trên các bình diện ngữ văn học, ngôn ngữ
Trong những ngày cuối cùng, sau khi làm tròn bổn phận, Nguyễn Trãi, nhà hiền triết hơn là nhà thơ, về ẩn ở Côn Sơn, mảnh đất thanh bình đã từng để lại dấu ấn cho quãng đời niên thiếu của ông. Đề tài chủ yếu trong thơ ông là vẻ đẹp của nơi ẩn dật, niềm vui bốn mùa trong cảnh trí xung quanh. [...] Ông tự ví mình như một chiếc thuyền con bị những sự nhiễu nhương trên vũ đài chính trị vùi dập:
Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ, Trời ban tối ước về đâu. |
Phía sau cái giọng ưu tư và thất vọng ấy, đó đây lại nổi lên niềm phấn chấn của một cá tính ít cam chịu nhẫn nhục:
Bui một tấc lòng tru ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông. |
Con thuyền "ưu ái cũ" ấy, một sáng sớm, đã tan vỡ ở Lệ Chi viên, gần Côn Sơn.
Sáu trăm năm sau, nỗi thao thức canh cánh của nhà hành động và nhà thơ Nguyễn Trãi vẫn là nỗi thao thức canh cánh bên lòng của tất cả những người yêu công lí và nhân đạo trên đời này.
(Nguyễn Trọng Định dịch, in trong Nguyễn Trãi - Về tác gia và tác phẩm,
Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu), NXB Giáo dục, 1999, tr. 1023 - 1026)
Tác phẩm nào của Nguyễn Trãi không được nhắc đến trong văn bản?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây