Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Chiếu dời đô SVIP
Tải đề xuống bằng file Word
CHIẾU DỜI ĐÔ
(Thiên đô chiếu)
Lý Công Uẩn
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Lý Thái Tổ (974 - 1028), tên thật là Lý Công Uẩn, là hoàng đế lập ra nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.
- Nhà vua là người thông minh, nhân ái, có chí lớn, lập được nhiều chiến công.
2. Tác phẩm
- Bối cảnh ra đời:
CHIẾU DỜI ĐÔ
(Thiên đô chiếu – Lý Công Uẩn)
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đô.
Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ thời Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; đã đúng ngôi nam, bắc, đông, tây, lại tiện hướng nhìn sông, dựa núi; địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa; thật là nơi tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là chốn kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?
Ghi chú:
Năm Canh Tuất, niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Việc dời đô và lựa chọn kinh đô mới, đổi tên Đại La thành Thăng Long cho thấy tầm nhìn chiến lược, tư tưởng chính trị sáng suốt của nhà vua. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc và lịch sử của kinh đô Thăng Long, chứng tỏ bản lĩnh và sự lớn mạnh, trưởng thành của dân tộc trên bước đường phát triển của mình.
Điền vào chỗ trống.
Năm , Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ ra . Nhân dịp này ông đã viết bài chiếu để rộng rãi quyết định cho nhân dân được biết.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
- Thể loại: Chiếu.
+ Hình thức: Thường được viết bằng văn xuôi, văn vần hoặc văn biền ngẫu.
+ Mục đích: Để vua ban bố những mệnh lệnh.
+ Nội dung: Thể hiện tư tưởng chính trị lớn, ảnh hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước.
- Bố cục:
CHIẾU DỜI ĐÔ
(Thiên đô chiếu – Lý Công Uẩn)
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đô.
Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ thời Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; đã đúng ngôi nam, bắc, đông, tây, lại tiện hướng nhìn sông, dựa núi; địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa; thật là nơi tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là chốn kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?
Ghi chú:
Năm Canh Tuất, niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Việc dời đô và lựa chọn kinh đô mới, đổi tên Đại La thành Thăng Long cho thấy tầm nhìn chiến lược, tư tưởng chính trị sáng suốt của nhà vua. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc và lịch sử của kinh đô Thăng Long, chứng tỏ bản lĩnh và sự lớn mạnh, trưởng thành của dân tộc trên bước đường phát triển của mình.
Nối các phần với nội dung chính.
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Lí do dời đô
Tác giả đã nêu ra lí do dời đô với các lí lẽ thuyết phục và bằng chứng xác thực.
- Các vị vua đời trước đã nhiều lần dời đô:
+ Nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô.
+ Nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô.
CHIẾU DỜI ĐÔ
(Thiên đô chiếu – Lý Công Uẩn)
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đô.
Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ thời Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; đã đúng ngôi nam, bắc, đông, tây, lại tiện hướng nhìn sông, dựa núi; địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa; thật là nơi tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là chốn kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?
Ghi chú:
Năm Canh Tuất, niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Việc dời đô và lựa chọn kinh đô mới, đổi tên Đại La thành Thăng Long cho thấy tầm nhìn chiến lược, tư tưởng chính trị sáng suốt của nhà vua. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc và lịch sử của kinh đô Thăng Long, chứng tỏ bản lĩnh và sự lớn mạnh, trưởng thành của dân tộc trên bước đường phát triển của mình.
Lý Công Uẩn dẫn sử sách nói về việc các vua Thương, Chu bên Trung Quốc cũng từng có những cuộc dời đô nhằm mục đích gì?
- Việc dời đô xuất phát từ lợi ích chung của dân tộc chứ không phải là ý định chủ quan của nhà vua. Vua muốn “đóng đô ở nơi trung tâm” đất nước, “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”, để cho “vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”, …
- Việc hai nhà Đinh, Lê không chịu dời đô khiến cho “triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi”.
--> Những lí do khách quan, chủ quan của việc dời đô.
--> Dời đô là việc làm thuận theo ý trời và lòng dân.
2. Lí do chọn Đại La làm kinh đô mới
Để thuyết phục triều đình về việc chọn Đại La làm kinh đô mới, Lý Công Uẩn đã trình bày lí lẽ và bằng chứng khách quan.
- Thiên thời:
+ Kinh đô cũ thời Cao Vương.
+ Nơi trung tâm trời đất.
+ Thế rồng cuộn hổ ngồi.
+ Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
- Địa lợi:
+ Đúng ngôi nam, bắc, đông, tây.
+ Tiện hướng nhìn sông, dựa núi.
+ Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng.
- Nhân hòa:
+ Dân cư khỏi chịu cảnh ngập lụt.
+ Muôn vật phong phú, tốt tươi.
--> Nơi này là thắng địa, tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, xứng đáng trở thành kinh đô mới.
3. Sự kết hợp hài hòa giữa lí trí và tình cảm trong văn bản
- Vua bàn luận với quần thần về quyết định quan trọng của mình với thái độ dân chủ, tôn trọng người khác trên cơ sở vì quyền lợi chung của dân tộc.
- Vua phân tích mọi lẽ thiệt hơn về việc dời đô, thể hiện quan điểm dứt khoát của mình thông qua các lí lẽ, bằng chứng.
CHIẾU DỜI ĐÔ
(Thiên đô chiếu – Lý Công Uẩn)
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đô.
Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ thời Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; đã đúng ngôi nam, bắc, đông, tây, lại tiện hướng nhìn sông, dựa núi; địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa; thật là nơi tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là chốn kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?
Ghi chú:
Năm Canh Tuất, niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Việc dời đô và lựa chọn kinh đô mới, đổi tên Đại La thành Thăng Long cho thấy tầm nhìn chiến lược, tư tưởng chính trị sáng suốt của nhà vua. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc và lịch sử của kinh đô Thăng Long, chứng tỏ bản lĩnh và sự lớn mạnh, trưởng thành của dân tộc trên bước đường phát triển của mình.
Câu nói của nhà vua “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” có ý nghĩa như thế nào? (Chọn 2 đáp án)
II. Tổng kết
1. Nội dung
- Chiếu dời đô phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập, thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.
2. Nghệ thuật
- Lối văn biền ngẫu, các vế đối nhau cân xứng nhịp nhàng.
- Cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén.
- Dẫn chứng tiêu biểu, giàu sức thuyết phục.
- Kết hợp hài hòa giữa tình và lí.
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây