Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Đề kiểm tra giữa học kì I - Đề số 4 SVIP
(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:
Chuyện Lý tướng quân
"Vua Giản Định nhà Hậu Trần lên ngôi ở Mô Độ(1), hào kiệt bốn phương, gần xa hưởng ứng, đều chiêu tập đồ đảng làm quân Cần Vương. Người huyện Đông Thành(2) là Lý Hữu Chi cũng do chân một người làm ruộng nổi lên, tính vốn dữ tợn nhưng có sức khỏe, giỏi đánh trận, Quốc công Đặng Tất(3) tiến cử cho Lý được làm chức tướng quân, sai cầm một cánh hương binh đi đánh giặc. Quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng ruột, coi người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho rộng đất, đi kiếm những hoa kỳ đá lạ từ bên huyện khác đem về. Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất là khổ sở, nhưng hắn vẫn điềm nhiên không chút động tâm.
Bấy giờ có một ông thầy tướng số đến cửa xin ăn và có thể nói được những việc họa phúc. Lý bảo xem tướng mình, ông thầy nói:
– Lợi cho việc làm không gì bằng nói thẳng, khỏi được tật bệnh không gì bằng thuốc đắng. Nếu ngài dung nạp thì tôi sẽ nói hết lời. Đừng vì đắng miệng mà ghét quở khiến tôi phải e dè kiêng tránh mới được.
Lý nói:
– Được, không hề gì.
Ông thầy nói:
– Điều thiện ác tích lâu sẽ rõ, sự báo ứng không sai chút nào. Cho nên luận số trước phải luận lý, tướng diện không bằng tướng tâm. Nay Tướng quân có dữ mà không lành, khinh người mà trọng của, mượn oai quyền để làm bạo ngược, buông tham dục để thỏa ngông cuồng, đã trái lòng trời, tất bị trời phạt, còn cách nào mà trốn khỏi tai họa!
Lý cười:
– Ta đã có binh lính, có đồn lũy, tay không lúc nào rời qua mâu, sức có thể đuổi kịp gió chớp, trời dù có giỏi cũng sẽ phải tránh ta không kịp, còn giáng hoạ cho ta sao được.
Thầy tướng nói:
– Tướng quân cậy mình mạnh giỏi chưa thể lấy lời nói để cho hiểu được, vậy tôi có chùm hạt châu nhỏ, xin đưa tướng quân xem sẽ biết rõ dữ lành, tướng quân có bằng lòng xem không?
Nhân lấy chùm hạt châu ở trong tay áo ra. Lý trông xem, thấy trong đó có lò lửa, vạc sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê gớm, hoặc cầm thừng chão, hoặc cầm dao cưa, mình thì đương bị gông xiềng, bò khúm núm ở bên vạc dầu, lấm lét sợ toát mồ hôi. Hỏi có cách gì cứu gỡ không, thì thầy tướng nói:
– Gốc ác đã sâu, mầm vạ sắp nẩy. Cái kế cần kíp ngày nay chỉ còn có đuổi hết hầu thϊếp, phá hết vườn ao, trút bỏ binh quyền, quy đầu phúc địa, tuy tội chưa thể khỏi được, nhưng cũng còn có thể giảm trong muôn một.
Lý ngẫm nghĩ lúc lâu rồi nói:
– Thôi thầy ạ, tôi không thể làm thế được. Có ai lại vì lo cái vạ sau này chưa chắc đã có, mà vứt bỏ những cái công cuộc sắp thành làm hì hục trong mấy năm bao giờ.
Sau đó hắn càng làm những sự dâm cuồng, chém giết, không kiêng dè gì cả. Người mẹ tức giận nói:
– Ưa sống ghét chết, ai ai cũng lòng, đạo trời sáng tỏ, cớ sao mày hay làm những sự giết chóc như vậy. Không ngờ ta đến lúc tuổi già, lại phải trông thấy đứa con mắc hình lục có ngày. […] Năm 40 tuổi thì Lý chết ở nhà.
Trước đây có người bản châu là Nguyễn Quỳ, khảng khái chuộng điều khí tiết, vốn cùng chơi thân với Thúc Khoản(4), nhưng chết đã ba năm nay rồi. Một hôm Thúc Khoản đi chơi sớm, chợt gặp ở đường; Nguyễn Quỳ bảo Thúc Khoản rằng:
– Phụ thân sắp bị đem ra tra hỏi. Tôi vì quen thân với anh, nên đến bảo cho anh biết trước. Anh có muốn xem, tối mai tôi cho người đến đón, anh sẽ được xem. Nhưng xem rồi cần phải giữ kín. Nếu nói hở ra một lời thì tai vạ sẽ lây sang đến tôi ngay.
[Lược một đoạn: Nửa đêm hôm đó, Thúc Khoản được đón xuống dưới Minh Ti, chứng kiến cảnh xét tội của các linh hồn. Thúc Khoản được tận mắt chứng kiến các phán quan tâu bày tội trạng, công lao của những người ấy. Người làm việc ác bị định tội, người hành thiện tích đức thì được làm tiên hoặc được cho chuyển kiếp vào nhà có phúc, hưởng lộc ba đời,… Đến lượt Hữu Chi, vì những tội ác chồng chất mà hắn đã từng gây ra, hắn đã bị trừng trị bằng những hình phạt vô cùng đau khổ: Lấy nước sôi rửa ruột để trị cái tội ghẹo vợ người, lấy truỳ thủ moi ruột để lòng tham không nổi lên nữa, bị đày vào ngục Cửu U lấy dây da chét lấy đầu, lấy dùi lửa đóng vào chân, bị chim cắt mổ vào ngực, bị rắn độc cắn vào bụng, trầm luân kiếp kiếp. Thúc Khoản chứng kiến hết thảy, giật mình tỉnh dậy ở cõi thực. Chàng quyết định đem tán cấp của cải cho mọi người và đốt hết văn tự nợ, vào rừng hái thuốc để tu luyện.]
Lời bình:
Than ôi! Đạo trời chí công mà vô tư, lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, cho nên hoặc có người lúc sống khỏi vạ mà lúc chết bị hình. Song, chịu hoạ ở lúc sống, người đã không hiểu, phải tội ở lúc chết, người lại không hay; vì thế mà đời thường có lắm loạn thần tặc tử. Ví thử họ hiểu, họ hay thì dù bảo làm ác cũng không dám làm. Song Lý Mỗ đã trông thấy và biết rõ rồi lại còn làm tệ hơn. Đó là người hư tồi bậc nhất không chuyển đổi được, không còn thể nói bàn gì nữa."
(Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, theo truyenhdt.com)
Chú thích:
(1) Mộ Đô: Yên Mô, nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
(2) Đông Thành: Huyện Đông Thành, nay thuộc Nghệ An.
(3) Đặng Tất: (Không rõ năm sinh, mất năm 1409) Một võ tướng giỏi và chủ chốt trong cuộc kháng chiến chống quân Minh do Trần Giản Định khởi xướng. Năm 1408, Đặng Tất chỉ huy đánh trận Bô Cô, giết được hai tướng Minh; Mộc Thạnh cũng suýt bị nguy, may chạy thoát. Cũng vì chiến công đó, Giản Định nghe lời gièm pha, không theo kế hoạch của Đặng Tất lại giết oan ông. Con trai Đặng Tất là Đặng Dung đã tức giận bỏ về Nghệ An đi theo Trần Quý Khoáng.
(4) Thúc Khoản: Con trai của Lý Hữu Chi.
Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):
Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?
Câu 2. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.
Câu 3. Theo em, nhân vật chính trong văn bản trên là ai? Nhân vật ấy được mô tả với những nét tính cách nào?
Câu 4. Chỉ ra một chi tiết hoang đường, kì ảo trong truyện và nêu tác dụng của chi tiết ấy.
Câu 5. Phát biểu ý nghĩa của văn bản trên và rút ra bài học cho bản thân. (Trình bày ngắn gọn khoảng 5 – 7 dòng)
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (0,5 điểm)
Văn bản thuộc thể loại truyện truyền kì.
Câu 2. (0,5 điểm)
Văn bản sử dụng ngôi kể thứ ba.
Câu 3. (1,0 điểm)
− Nhân vật chính: Lý Hữu Chi.
− Đặc điểm nhân vật: Dữ tợn, tham lam, độc ác, ích kỉ, bạo ngược, coi thường đạo lí.
Câu 4. (1,0 điểm)
– HS xác định và chỉ ra 1 chi tiết kì ảo trong văn bản và phân tích tác dụng của chi tiết ấy.
– Ví dụ:
+ Chi tiết kì ảo: Thúc Khoản xuống Minh Ti chứng kiến cảnh xử tội các linh hồn.
+ Tác dụng:
++ Làm tăng thêm sức hấp dẫn, li kì cho truyện.
++ Nhấn mạnh luật nhân quả, sự công minh của "lưới trời", qua đó thể hiện chủ đề, tư tưởng của truyện và nhấn mạnh đạo lí ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.
Câu 5. (1,0 điểm)
– Ý nghĩa văn bản: Qua truyện Chuyện Lý tướng quân, truyện không chỉ lên án, tố cáo Lý tướng quân đã lạm quyền mà trở nên tàn ác, tham lam, coi thường đạo lí, làm nhiều chuyện ác mà còn từ chính câu chuyện ấy, khẳng định sự công minh của "lưới trời", nhấn mạnh lối sống "ác giả ác báo, thiện giả thiện báo".
– Từ ý nghĩa văn bản, HS tự rút ra cho mình bài học, đó có thể là bài học về việc sống lương thiện, công bằng, chính trực; bài học về ý nghĩa của lòng tham, học cách sống biết đủ, sống có trách nhiệm với cộng đồng;…
Câu 1. (2,0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Hữu Chi trong văn bản trên.
Câu 2. (4,0 điểm) Trong Chuyện Lý tướng quân, Lý Hữu Chi vì tham lam vô độ, không biết điểm dừng mà phải nhận sự trừng phạt đầy đau đớn. Từ câu chuyện của nhân vật này, hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 400 – 600 chữ) về tác hại của lòng tham trong đời sống (như tham lam vật chất mà ra sức vơ vét; ích kỉ trong học tập nên gian lận để đạt điểm cao;…) và đưa ra các biện pháp hiệu quả nhằm hạn chế, loại bỏ thói xấu này.
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (2,0 điểm)
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
– Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.
– HS có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích nhân vật Hữu Chi.
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:
– Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:
+ Xuất thân: Ban đầu chỉ là người nông dân, nhờ có sức khoẻ và tài đánh trận mà được cất nhắc.
+ Khi nắm quyền lực trong tay: Hắn trở nên tha hoá, tham lam, ham mê sắc dục, tiền tài, tàn ác, coi thường đạo lí. Dù được thầy tướng số cảnh báo, được cho thấy trước tương lai bị trừng trị và được người thân khuyên răn nhưng hắn vẫn không hề thay đổi, lại càng làm thêm nhiều điều bạo ngược.
+ Kết cục: Chết trẻ, xuống Minh Ti bị trừng trị bằng nhiều hình phạt nặng nề, ghê gớm, tàn khốc.
=> Từ những ý phân tích, HS nhận xét về nhân vật: Nhân vật này là hiện thân của cái ác, cái bạo tàn trong xã hội rối ren, suy vi lúc bấy giờ. Qua nhân vật này, tác giả gửi gắm tư tưởng và bài học sâu sắc về lòng tham và về cách sống biết đủ, sống có trách nhiệm với cộng đồng.
Câu 2. (4,0 điểm)
a. Bảo đảm yêu cầu về bố cục, dung lượng của bài văn nghị luận:
Bảo đảm yêu cầu về bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ).
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
Tác hại của lòng tham trong đời sống và các biện pháp hiệu quả góp phần hạn chế, loại bỏ thói xấu này.
c. Viết được bài văn đảm bảo các yêu cầu:
HS biết triển khai và làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. Sau đây là một số gợi ý:
c1. Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
c2. Thân bài:
* Giải thích được vấn đề: Lòng tham là sự ham muốn quá mức, vượt ngoài giới hạn chính đáng, chỉ nghĩ cho bản thân mình.
* Biết phân tích làm sáng tỏ vấn đề:
– Biểu hiện của lòng tham trong cuộc sống:
+ Tham lam tiền bạc, vật chất, của cải.
+ Ham muốn quyền lực, địa vị bằng mọi giá.
+ …
– Thực trạng:
+ Trong xã hội, nhiều người vì ham muốn địa vị, quyền lực mà tham nhũng, hối lộ, chạy chức chạy quyền, làm giàu bất chính,…
+ Trong môi trường học đường, còn tồn tại tình trạng gian lận trong thi cử, mua bán điểm số,…
– Tác hại của lòng tham:
+ Làm tha hoá nhân cách của con người: Con người sẽ trở nên ích kỉ, dối trá, ác độc hơn.
+ Phá vỡ các mối quan hệ xã hội: Mất lòng tin, gây mâu thuẫn, xung đột trong các mối quan hệ.
+ Hậu quả lâu dài: Mất uy tín, danh dự; bị xã hội lên án; bản thân người phạm lỗi sẽ phải chịu đựng sự trừng phạt của pháp luật, lương tâm, xã hội.
* Đưa ra các biện pháp khắc phục:
– Rèn luyện lối sống giản dị, biết đủ, biết hài lòng với công sức lao động chân chính.
– Thực hành sự trung thực, ngay thẳng trong học tập, thi cử, lối sống hàng ngày.
– Gia đình và nhà trường cần tăng cường giáo dục đạo đức, xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực cho học sinh.
– Khen ngợi, nêu gương những tấm gương trung thực, biết đấu tranh, vạch trần cái gian dối, bảo vệ lẽ phải,…
c3. Kết bài: Khẳng định lại tác hại của lòng tham đối với xã hội và nhấn mạnh bài học về nhận thức, hành động ở mỗi cá nhân sao cho góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, tích cực.